Electricity can be delivered in either alternating current (AC), or direct current (DC), and in the late 1880s in America, with electricity delivery in its infancy, it initially seemed clear which system was superior.
Điện có thể được phát từ dòng điện xoay chiều (AC), hoặc dòng điện một chiều (DC), và vào cuối những năm 1880 ở Mỹ, khi việc phân phát điện ở thời kỳ đầu, từ ban đầu dường như đã rõ ràng hệ thống nào là vượt trội hơn.
Thomas Edison, a home-grown American inventor, heavily favored DC from the start.
Nhà phát minh người Mỹ, Thomas Edison đã rất ủng hộ DC ngay từ ban đầu.
Yet the limitations of his system would become increasingly obvious, as would the advantages of AC, and despite Edison’s best efforts, his crusade would ultimately be lost.
Tuy nhiên, những hạn chế trong hệ thống của ông càng ngày trở nên rõ hơn, cũng như những lợi thế của AC và mặc dù Edison đã nổ lực hết mình nhưng cuộc vận động của ông cuối cùng cũng bị thất bại.
In 1879, Edison’s team at Menlo Park had improved the electric light bulb, but Edison needed an efficient electricity distribution system to capitalise on this.
Năm 1879, nhóm nghiên cứu của Edison tại Menlo Park đã cải tiến bóng đèn điện, nhưng Edison cần một hệ thống phân phối điện hiệu quả để tận dụng điều này.
Thus, in 1880, he founded the Edison Illuminating Company and constructed a generating station providing 110 volts of direct current.
Vì vậy, vào năm 1880, ông đã thành lập Công ty Edison Illuminating và xây dựng một trạm phát điện cung cấp dòng điện một chiều 110 volt.
Yet such a system has drawbacks.
Tuy nhiên, một hệ thống này có những nhược điểm.
Due to the low voltage, there Hows correspondingly higher current, meaning that the electrical resistance of the transmission wires significantly reduces the voltage as it travels further afield.
Do điện áp thấp, tại nơi Hows có dòng điện tương ứng cao hơn, nghĩa là điện trở của các dây dẫn truyền làm giảm điện áp đáng kể khi dòng điện di chuyển ra xa hơn.
Whatever thickness of wire is used, there is a natural limitation in the distance over which the electricity can be economically transmitted.
Bất kể độ dày nào của dây được sử dụng đều có hạn chế tự nhiên ở khắp đường truyền mà về mặt hiệu quả kinh tế điện có thể đã được truyền qua.
There are, however, benefits to using DC.
Tuy nhiên, có những lợi ích khi sử dụng DC.
It can allow storage batteries to be directly connected to the electricity grid, giving extra power to meet sudden short-term peaks of demand or backup during the breakdown of supply.
Nó có thể cho phép các pin lưu trữ được kết nối trực tiếp với lưới điện, từ đó cung cấp thêm năng lượng để đáp ứng nhu cầu những lúc cao điểm trong ngắn hạn hoặc dự phòng khi sập nguồn.
Furthermore, during Edison’s time, there were no practical AC motors, only DC ones.
Hơn nữa, trong thời kỳ của Edison, không có động cơ AC thiết thực nào, chỉ có động cơ DC.
Also, most of the load consisted of incandescent light bulbs, which ran well in DC.
Ngoài ra, phần lớn vật tải bao gồm các bóng đèn sợi đốt, cái mà chạy tốt trong DC.
Perhaps most importantly, Edison had the patents (legal rights) to many associated DC devices which he and his team had invented, such as meters, telegraphic devices, and household machinery.
Quan trọng nhất có lẽ là Edison đã có các bằng sáng chế (quyền hợp pháp) đối với nhiều thiết bị DC kết hợp mà ông và nhóm của ông đã phát minh ra như đồng hồ đo, thiết bị điện báo và máy móc gia dụng.
Thus, the widespread adoption of DC across America would see him gain considerably from patent royalties.
Do đó, việc áp dụng rộng rãi DC trên khắp nước Mỹ cho thấy ông ấy thu lời đáng kể từ tiền bản quyền bằng sáng chế.
Still, all such inventions were somewhat useless when DC electricity could only be delivered to customers within a few kilometers of the generating source.
Tuy nhiên, tất cả những phát minh này hơi kém hiệu quả khi điện DC chỉ có thể được phân phát tới các khách hàng trong vòng vài kilômét từ nguồn phát điện.
To overcome this problem, the best answer is to transform, or step-up, the voltage to very high levels for transmission, and then transform it down to safe levels for customer use.
Để khắc phục vấn đề này, tốt nhất là chuyển đổi, hoặc tăng điện áp lên những mức rất cao khi truyền tải và sau đó chuyển xuống các mức an toàn để khách hàng sử dụng.
This also allows thinner and less expensive wires, but there is no low-cost technology to transform voltage — unless one uses AC, and it was the brilliant physicist and prolific inventor, Nikola Tesla, who had extensively researched this system.
Điều này cũng cho phép sử dụng ở các loại dây mỏng hơn và ít tốn kém hơn, nhưng lại không có kỹ thuật, công nghệ nào giá rẻ để biến đổi điện áp - trừ công nghệ sử dụng AC, và Nikola Tesla là nhà vật lý tài năng và nhà phát minh ra nhiều sản phẩm, người đã nghiên cứu sâu rộng hệ thống này.
Tesla, a penniless immigrant from Serbia, worked for a year at Edison’s Menlo lab.
Tesla là một người nhập cư không xu dính túi từ Serbia, đã làm việc một năm tại phòng thí nghiệm của Menlo ở Edison.
He had actually proposed the AC system to Edison, but Edison, an empirical experimenter with little formal education, dismissed it as impractical.
Thực ra ông là người đã đề xuất hệ thống AC cho Edison, nhưng Edison là một người thử nghiệm theo kinh nghiệm kèm theo việc không được đào tạo chính quy, cho rằng AC không thực tế nên đã bỏ qua nó.
Tesla, with the mathematical training and formal theoretical knowledge, was able to understand AC’s potential, even inventing an AC polyphase electric induction motor.
Với sự đào tạo về toán học và kiến thức lý thuyết chính quy, Tesla đã có thể hiểu được tiềm năng của AC, ngay cả phát minh ra động cơ cảm ứng điện đa pha AC.
Tesla soon felt he was not being given due credit or enough financial compensation from Edison, and a direct confrontation led to him immediately resigning, after which he was reduced to working as a labourer for a few years to make ends meet.
Tesla sớm cảm nhận được ông ấy không được trả tiền đúng hạn hay không đủ tiền bồi thường tài chính từ Edison, và một cuộc chạm trán trực tiếp dẫn đến anh ta từ chức ngay lập tức, sau việc đó ông bị giáng chức như một người lao động trong vài năm để xoay sở sống qua ngày.
But Tesla was not the first to advocate AC.
Nhưng Tesla không phải là người đầu tiên ủng hộ AC.
The system was being trialed in many European countries, with considerable success.
Hệ thống này đã được thử nghiệm ở nhiều nước châu Âu, với thành công đáng kể.
One of the converts to the cause was a university-trained electrical engineer named George Westinghouse, and he was willing to invest in the idea.
Một trong những người thay đổi sự nghiệp là một kỹ sư điện được đào tạo tại trường đại học có tên là George Westinghouse, và ông ta quyết tâm nỗ lực vào ý tưởng này.
He formed a company and purchased the patents to AC-based transformer technology from its European inventors, as well those to Tesla’s AC polyphase electric motor, among others.
Ông ta đã thành lập một công ty và mua bằng sáng chế cho công nghệ biến áp dựa trên AC từ các nhà phát minh châu Âu, cũng như bằng sáng chế cho động cơ điện AC đa pha của Tesla, giữa những người khác.
This eventually led to him hiring Tesla himself to help commercialise AC, and promote it as a better system.
Điều này cuối cùng dẫn đến việc anh ta thuê Tesla để giúp thương mại hóa AC và thúc đẩy thành một hệ thống tốt hơn.
A bitter feud, known as the ‘War of Currents’ was set to begin.
Từ đây một mối thù cay đắng, được gọi là "cuộc chiến Dòng điện" bắt đầu.
Edison first strike was to claim that high-voltage systems were too dangerous to use.
Cuộc tấn công đầu tiên của Edison là ông tuyên bố rằng việc sử dụng các hệ thống điện cao áp quá nguy hiểm.
Certainly, they were dangerous, but Westinghouse countered that such risks could be minimised and were considerably outweighed by the benefits.
Tất nhiên là chúng nguy hiểm, nhưng Westinghouse phản đối rằng những rủi ro như vậy có thể được giảm thiểu và những lợi ích mang lại có giá trị đáng để kể hơn.
Edison’s next strike was to use his influence on various American state governments to limit power transmission to low voltages, effectively eliminating AC from the competition.
Tiếp theo, Edisson tấn công bằng cách sử dụng ảnh hưởng của ông đối với các chính phủ tiểu bang khác nhau của Mỹ để hạn chế khả năng truyền tải điện xuống điện áp thấp, loại bỏ hiệu quả AC khỏi cuộc tranh đua.
When this failed, Edison was prepared to conduct public electrocutions of animals by AC — even on a rogue elephant no longer wanted by its circus owners.
Khi điều này thất bại, Edison đã chuẩn bị thực hiện công khai các cuộc điện giật trên động vật bằng AC - thậm chí trên một con voi cô độc đã bị các chủ xiếc của nó bỏ.
In the battle of public opinion, this was even filmed.
Trong trận chiến công khai dư luận, nó thậm chí còn được quay phim lại.
The next logical step was to show AC’s deadliness on human beings themselves.
Để hợp với lô - gich, bước tiếp theo là ông chỉ ra sự gây chết chóc của AC trên chính con người.
Edison, realising that he was losing the war, again used his influence on government, this time to promote the use of AC for the execution of prisoners.
Edison nhận thức rõ ông thua trong cuộc chiến này, lại lần nữa sử dụng sức ảnh hưởng của ông đối với chính phủ, nhưng lần này là để thúc đẩy việc sử dụng AC cho việc hành quyết các tù nhân.
Thus, in 1890, the first ‘electric chair’ was constructed in anticipation of ande impending death sentence.
Vì vậy, vào năm 1890, "ghế điện" đầu tiên được dựng lên, dự đoán về một bản án tử hình sắp xảy ra.
Westinghouse countered by hiring the best lawyers of the day to defend the prisoner in question, as well as to prevent the system of execution.
Westinghouse đã phản đối bằng cách thuê những luật sư tốt nhất lúc đó để bảo vệ tù nhân đang còn bị chất vấn, cũng như ngăn chặn hệ thống hành hình này.
Although he failed in both respects, the results were unexpected.
Mặc dù ông đã thất bại trong cả hai khía cạnh, nhưng kết quả không ngờ.
Despite a botched execution and the horror of the spectators, the electric chair would remain, but AC would not be stigmatised as the killer Edison’s had hoped.
Bất chấp cuộc hành quyết bất thành và sự kinh hoàng của khán giả, chiếc ghế điện vẫn được duy trì, nhưng AC sẽ không bị kỳ thị như kẻ giết người mà Edison đã hy vọng.
Meanwhile, AC’s range and efficiency saw Westinghouse being given high prestige engineering projects, such as the Ames Hydro-electric Generating Plant (1891), and another one on Niagara Falls, culminating in the greatest public relations victory in 1893: the contract to illuminate the Columbian Exposition in Chicago.
Trong khi đó, Westinghouse được các dự án kỹ thuật có uy tín cao, như Dự án nhà máy thủy điện Ames (1891), và một dự án khác trên thác Niagara, đỉnh điểm trong chiến thắng quan hệ công chúng lớn nhất năm 1893: hợp đồng chiếu sáng Triển lãm Columbian ở Chicago cho thấy tầm ảnh hưởng và hiệu suất của AC.
Here, Tesla and Westinghouse showed the wonders of AC power with various electrical exhibits, such as fluorescent lamps and Tesla’s AC motors, to an awestruck audience and widespread press attention.
Ở đây, Tesla và Westinghouse đã cho thấy những điều kỳ diệu về năng lượng AC với nhiều hiện vật trưng bày về điện khác nhau, chẳng hạn như đèn huỳnh quang và các động cơ AC của Tesla, làm cho khán giả kinh ngạc và báo chí khắp nơi chú ý.
After that, the war was effectively won, and AC would take over almost completely.
Sau đó, cuộc chiến đã chiến thắng hiệu quả, và AC tiếp quản gần như hoàn toàn thị trường điện.