The search for colour

We seldom reflect on the artificial colour of modern merchandise.

Chúng ta ít khi phản ánh (nghĩ) về màu nhân tạo của các sản phẩm thương nghiệp (hàng hóa, sản phẩm) hiện đại.

A blue car is blue; a red chair, red; a green bicycle, green.

Một chiếc ô tô màu xanh lam thì có màu xanh lam; một chiếc ghế đỏ (thì) có màu đỏ (và) một chiếc xe đạp xanh lá (thì có) màu xanh lá.

But why does it have colour? Answer, because its surface contains pigment.

Nhưng tại sao chúng lại có màu sắc? Câu trả lời là vì bề mặt của chúng có chứa phẩm màu.

If this was originally dissolved in a carrier liquid to transfer the colour, it is known as a dye, but whatever the case, since colour is the most visible element in all objects we desire, pigments can be said to be the basis of customer choice, and therefore of almost all hard trade and transactions.

Nếu thuốc màu này chỉ đơn thuần hòa tan vào chất lỏng vận chuyển để chuyển màu, nó được biết tới là phẩm nhuộm, nhưng trong bất cứ trường hợp nào, bởi vì màu sắc là yếu tố nền tảng nhất ở tất cả các vật thể chúng ta yêu cầu, thuốc nhuộm có thể nói là cơ sở cho sự lựa chọn của khách hàng, và vì thế là cơ sở của hầu như tất cả các loại giao thương vật chất và giao dịch .

Consequently, production of this substance is big business, now accounting for over twenty billion dollars annually in global sales—yet there was a time when none of it existed.

Như một kết quả, sự sản xuất của loại chất này một nguồn lợi lớn hiện nay, ước tính chiếm hơn 20 tỷ đô la hàng năm trong thương mại toàn cầu - mặc dù vậy vẫn có một khoảng thời gian khi không một trong số những điều đó tồn tại.

Going back into the mists of prehistory, objects, tools, and clothing were all earthen and bland, without anything except their natural colours.

Trở lại màn sương mù của thời kỳ tiền sử, tất cả các vật dụng, công cụ và quần áo nói chung đều được làm bằng đất và đơn sơ, không có gì ngoại trừ màu tự nhiên của chúng.

The first pigments used were of mineral origin — from natural clays tinted by the presence of iron-oxides.

Những loại màu nhuộm đầu tiên được sử dụng có nguồn gốc từ khoáng chất - lấy từ đất sét tự nhiên bị nhuộm màu bởi sự xuất hiện của sắt oxit.

The best known examples are the gold colour of ochre, the brown of umber, and the yellow of sienna.

Ví dụ tiêu biểu nhất phải kể đến màu vàng kim của thổ hoàng, màu nâu của đất umber và màu vàng của đất sienna.

These were ground up and mixed with fat to create paint, used, for example, in the earliest European cave paintings.

Chúng được nghiền nát và trộn với chất béo để tạo ra màu sơn, được sử dụng, ví dụ, trong những bức tranh sơn động đầu tiên của Châu Âu.

Ash, as well as charcoal (derived from heating wood in the absence of oxygen), were also used to provide black, but in the search for colour, it was soon discovered that biological matter, such as plants, animal waste, mollusks, and insects, could yield more interesting results.

Tro, cũng như than củi, lấy từ củi đốt trong điều kiện không có oxi, cũng được sử dụng để mang lại màu đen, nhưng trong công cuộc tìm kiếm màu sắc, nó đã sớm được khám phá ra rằng những vật chất sinh học, chẳng hạn như thực vật, chất thải động vật, động vật thân mềm và côn trùng, có thể mang lại nhiều kết quả thú vị hơn.

Crimson —a bright red colour—is a good example.

Crimson - màu loại màu đỏ sáng - là một ví dụ tốt.

It was extracted from kermes, a small insect found on Southern-European oak trees.

Nó được chiết xuất từ kermes - một loại côn trùng nhỏ được tìm thấy trên những cây sồi ở vùng phía Nam Châu Âu.

The pigment is a constituent of the carminic acid produced inside the creature’s body, used to discourage predation by birds or other insects.

Chất màu này là một thành phần của axit carminic, một loại axit được sản xuất từ cơ thể sống, được sử dụng để ngăn cản sự săn mồi của chim và các loại côn trùng khác.

However, with the trees being large and bushy, and the sap-feeding insects few and far between, pigment production was a meticulous and time-consuming process.

Mặc dù vậy, khi cây cối trở nên to lớn và rậm rạp hơn, và côn trùng ăn nhựa cây không thường xuyên, quá trình sản xuất phẩm màu khá công phu và tốn nhiều thời gian.

This increased the price of the product, the end result being that, in Northern Europe, pure crimson long remained a luxury colour for clothing and textiles.

Điều này khiến cho giá thành phẩm tăng, và kết quả là ở vùng Bắc Âu, màu crimson nguyên chất giữ vị trí lâu dài là một loại màu xa xỉ dùng cho quần áo và hàng dệt may.

Interestingly, across the Pacific Ocean, people were producing the same colour from the same chemical within another insect.

Một cách thú vị, trên khắp Thái Bình Dương, mọi người sản xuất loại màu sắc giống nhau từ cùng loại hóa chất có trong một loại côn trùng khác.

They were called cochineals: small scaly creatures which breed in abundant clusters on the fleshy leaves of a commonly occurring cactus.

Chúng được gọi là rệp son: loài sinh vật có vảy nhỏ sinh đẻ thành các cụm lớn trên chiếc lá dày cùi thịt của những cây xương rồng thường gặp.

These insects have many advantages over kermes.

Loại côn trùng này đem lại nhiều ưu thế hơn so với côn trùng kermes.

Being so prolific and so easily seen by predators, they need to produce higher concentrations of carminic acid for protection, up to a quarter of their body weight.

Quá mắn đẻ cũng như dễ bị phát hiện bởi thú săn mồi, chúng cần xuất ra nồng độ axit carminic cao hơn để phòng vệ, lên đến ¼ cân nặng cơ thể.

The pigment which results is also stronger and longer-lasting.

Thành quả là chất màu được tạo ra cũng đặc hơn và giữ được lâu hơn.

Finally, the insects are far more easily obtained, being simply scrapped or knocked off the cactus leaves. Thus, after the Spanish conquest of Mexico, cochineals replaced kermes almost completely, becoming a lucrative Central American export for the next few centuries.

Cuối cùng, loại côn trùng này dễ thu được hơn, đơn giản là loại bỏ lá xương rồng. Vì vậy, sau khi Tây Ban Nha xâm chiếm Mexico, rệp son gần như thay thế hoàn toàn cho kermes, trở thành một mặt hàng xuất khẩu có giá trị lợi nhuận cao của khu vực Trung Mỹ trong vài thế kỷ tiếp sau đó.

The lure of crimson was only exceeded by the vivid ‘Tyrian purple’ — a colour which had ranked in highest favour since antiquity.

Sức hấp dẫn của màu crimson chỉ bị vượt qua bởi ‘màu tím Ty-rơ’ - một loại màu đã luôn được ưa thích nhiều nhất trừ thời xưa.

Its source was the medium-sized Murex sea snail.

Nguồn gốc của nó là từ loài ốc biển Murex cỡ trung bình.

With a range around the coastal Mediterranean, early civilisations there soon realised that the mucus the snail secretes when poked and prodded could be treated to produce a purplish-blue dye which did not fade with time.

Với cả một dải xung quanh bờ biển Địa Trung Hải, những cư dân đầu tiên ở đó đã sớm nhận ra chất nhầy con ốc tiết ra khi bị đâm chọc và kích thích có thể được sử dụng để sản xuất phẩm nhuộm màu xanh tía mà không bị phai màu theo thời gian.

However, by needing thousands of sea snails and using a complicated (and still little known) process, all for the production of only small amounts of pigment, the colour was so expensive it could only be afforded by the ruling classes.

Mặc dù vậy, việc cần cả ngàn con ốc biển và phải sử dụng một quá trình phức tạp (và ít được biết tới), tất cả chỉ để sản xuất một lượng nhỏ thuốc màu, loại màu này rất đắt và chỉ có thể được sử dụng cho tầng lớp thống trị.

This led to purple becoming associated with royalty.

Điều đó dẫn tới việc màu tím trở nên gắn liền với người trong hoàng tộc.

Roman emperors traditionally wore clothing of this colour.

Hoàng đế La Mã thường mặc trang phục với màu sắc này một cách truyền thống.

For a less durable blue, suitable for dyeing clothes, the indigo plant was discovered.

Đối với màu xanh ít lâu bền hơn, thích hợp cho quần áo nhuộm, cây chàm được phát hiện.

Its leaves were fermented, and then left to age, and the sediment eventually produced was dried, treated, then reduced to a blue powder.

Lá của nó được lên men, sau một thời gian dài, cuối cùng chất cặn được làm khô, xử lý, rồi được biến đổi thành một loại bột màu xanh lam.

This pigment can, in fact, be said to be the oldest used to colour fabric.

Đấy có thể coi là loại màu lâu đời nhất dùng để nhuộm vải.

It is one reason jeans were originally blue, and remain so to this day, indigo being the dye used to colour them.

Đó là một lý do vì sao quần jeans ban đầu có màu xanh lam, và cứ như vậy cho tới ngày nay, màu chàm được sử dụng để nhuộm chúng.

However, it was not suitable for painting or artistic purposes.

Mặc dù vậy, loại màu này không thích hợp dùng cho mục đích hội họa và nghệ thuật.

For that, European artists used a mixture derived from the grinding up of lapis lazuli, a semi-precious stone, whose only known source was in far Afghanistan.

Vì thế, các nhà họa sĩ người Châu Âu sử dụng một hỗn hợp tạo thành từ việc nghiền nát đá lapis lazuli, một loại đá bán quý, mà nguồn gốc duy nhất được biết tới là ở xa Afghanistan.

Consequently, this colour was very costly, and many artists avoided it altogether.

Kết quả là, loại màu này rất đắt đỏ, và nhiều họa sĩ nhìn chung là tránh nó.

Others, however, were deliberately extravagant in its use, producing proportionally more expensive paintings.

Một số người khác, mặc dù vậy, cố ý sử dụng phung phí, sản xuất ra tương đối những bức họa đắt tiền hơn.

The cost of this paint resulted in much experimentation during the Industrial Revolution in search of chemical-based alternatives.

Giá trị của loại màu sơn này dẫn tới việc nhiều cuộc thí nghiệm diễn ra trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp với công cuộc tìm kiếm những lựa chọn dựa vào hóa học khác.

This eventually led to the first modern synthetic pigment, Prussian Blue.

Điều này cuối cùng dẫn tới sắc tố tổng hợp hiện đại đầu tiên, màu xanh Phổ.

Discovered in Germany in the early 18th century, it was put into rapid production and exportation, giving artists around the world the first cheap, yet stable, blue pigment.

Được tìm thấy ở Đức vào đầu thế kỉ 18, nó được đưa vào đầu tư sản xuất nhanh và xuất khẩu, đưa đến cho các họa sĩ vòng quanh thế giới thuốc màu xanh lam đầu tiên rẻ, nhưng bền.

Other chemists were making similar breakthroughs.

Những nhà hóa học khác cũng tạo nên những bước đột phá tương tự.

The vivid purple of the Murex snail was accidentally produced by an English chemist, William Perkins, who soon put ‘mauveine’ into commercial production.

Màu tím sáng từ ốc Murex được tạo ra một cách ngẫu nhiên bởi một nhà hóa học người Anh, William Perkins, người đã sớm đưa màu “mauveine” vào làm sản phẩm thương mại.

With such efforts, affordable pigments were soon found in all colours.

Với tất cả những nỗ lực như vậy, chất màu với giá cả phải chăng đã sớm được tìm thấy trong tất cả các màu sắc.

Mass production followed, bringing industrial prosperity to Northern Europe, but decline in many parts of the world where traditional organic pigments were still under production.

Sự sản xuất hàng loạt sau đó đã mang lại sự phát đạt cho vùng Bắc Âu, nhưng suy giảm ở nhiều nơi trên thế giới nơi các chất màu hữu cơ truyền thống vẫn đang được đặt vào sản xuất.

In the Americas, for example, the crimson of cochineals, having long been a Spanish monopoly and rich source of export income, went into steady decline.

Ở Châu Mỹ làm ví dụ, màu đỏ thẫm từ con rệp son, từ lâu đã trở thành độc quyền của Tây Ban Nha và tạo nguồn thu nhập xuất khẩu phong phú, dần dần đi xuống.

However, all was not lost.

Mặc dù vậy, chúng đều không bị mất đi.

In this modern age, there has been a shift back towards naturalness, even in pigments, and this has seen a resurgence in the popularity of cochineals.

Trong thời đại hiện nay, có một sự thay đổi hướng tới tính tự nhiên, kể cả trong phẩm màu, và điều này chứng kiến sự hồi sinh trở lại về sự phong phú của rệp son.

The pigment is now commercially produced in several countries, with Peru being the largest exporter.

Chất màu này hiện nay được sản xuất thương mại ở nhiều quốc gia, với Peru trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất.

Share: X (Twitter) Facebook LinkedIn