Cubism

When the name of Picasso is spoken, the concept of ‘Cubism’ usually springs to mind.

Khi cái tên ‘Picasso’ được nói đến, thì khái niệm ‘Cubism’ hay còn gọi là ‘Trường phái lập thể’ thường nảy sinh trong đầu.

That this happens indicates just how deep and long-lasting has been its influence on the world, yet although many people know of the name ‘Cubism’, few can speak about it with any degree of conversancy.

Điều này cho thấy mức độ ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài của nó trên thế giới, mặc dù nhiều người biết đến cái tên ‘Cubism’, nhưng ít người có thể nói và hiểu về nó một cách quen thuộc.

It is Georges Braque who is now credited as an equal pioneer in this revolutionary art movement, but claiming that these two artists alone created cubism oversimplifies a very complex issue.

Georges Braque, hiện nay được coi là người tiên phong bình đẳng trong phong trào nghệ thuật mang tính cách mạng này, nhưng người ta cho rằng hai nghệ sĩ này đã tạo ra trường phái lập thể để đơn giản hóa một vấn đề rất phức tạp.

Defining Cubism itself is difficult.

Thật khó để định nghĩa Trường phái lập thể là gì.

At its simplest, the three-dimensional object being painted can be considered broken into pieces, sometimes square or cube-shaped (hence the name).

Đơn giản nó là một đối tượng ba chiều và được chia nhỏ ra thành nhiều mảnh, đôi khi là hình vuông hoặc hình lập phương (vì vậy nó được gọi là Trường phái lập thể).

These are reassembled in less than coherent order, and often at different angles.

Những mảnh này được tập hợp lại theo trật tự ít mạch lạc hơn, và thường ở các khía cạnh khác nhau.

They can overlap, and sometimes more than one view is presented at the same time, moving beyond the limits of a fixed observer.

Chúng có thể nằm chồng lên nhau, và đôi khi được thể hiện dưới nhiều góc nhìn khác nhau trong cùng một thời điểm, vượt xa ngoài giới hạn của một người có góc nhìn cố định.

The terms ‘multiple viewpoints’ and ‘mobile perspectives’ are often used — that is, the subject is captured from different angles, at different times, with the corresponding images fused into a single picture.

Tiêu chí ‘góc nhìn đa chiều’ và ‘luật phối cảnh lưu động’ thường được sử dụng ở đây - tức là đối tượng được vẽ từ các góc độ khác nhau, vào các thời điểm khác nhau, với những hình ảnh tương ứng được hợp nhất thành một bức tranh duy nhất.

Braque’s pre-war paintings began experimenting with this idea, which inevitably led to an association with Picasso, who had been dabbling also in rendering three-dimensional views into two-dimensional geometric shapes — for example, in his painting Young Ladies of Avignon — often labelled ‘proto-cubist’.

Những bức tranh trước chiến tranh của Braque đã bắt đầu thử nghiệm với ý tưởng này, nó có mối liên hệ với ý tưởng của Picasso , người cũng đang nghiên cứu việc biến những viễn cảnh ba chiều thành những hình dạng hình học hai chiều - ví dụ, trong bức tranh Young Ladies of Avignon của ông - thường được dán nhãn ‘proto-cubist’ hay còn gọi là người vẽ tranh lập thể đi đầu.

Some even consider this painting to be the true beginning of Cubism itself, as it inspired Braque to follow the lead, developing the movement towards its trademark features.

Thậm chí một số người còn coi bức tranh này là sự khởi đầu của trường phái lập thể, vì nó đã truyền cảm hứng cho Braque đi theo, phát triển phong trào theo những đặc điểm phân biệt đặc trưng của nó.

Yet both artists were influenced by earlier painters, in particular, the later works of Cezanne.

Tuy nhiên, cả hai đều bị ảnh hưởng bởi các họa sĩ trước đó, cụ thể là các tác phẩm sau này của Cezanne.

Cezanne was one of the first to divide the canvas into several views, as well as to begin presenting natural objects in geometric figures.

Cezanne là một trong những người đầu tiên chia tranh sơn dầu thành nhiều góc nhìn, cũng như bắt đầu trình bày các vật thể tự nhiên dưới dạng hình học không gian.

Paul Cezanne had died in 1906, but a year later several museums exhibited his paintings in a retrospective of the artist’s life.

Paul Cezanne đã qua đời vào năm 1906, nhưng một năm sau đó, một số bảo tàng đã trưng bày các bức tranh của ông trong cuộc triển lãm để tưởng nhớ về cuộc đời của nghệ sĩ này.

Inevitably, young painters in the Parisian art scene, including Picasso and Braque, would have seen these.

Chắc chắn rằng, các họa sĩ trẻ trong lĩnh vực nghệ thuật ở Paris, gồm có Picasso và Braque, cũng sẽ biết đến chúng.

Whilst not yet fractured into facets or cubes, Cezanne occasionally implanted an underlying geometry—for example, in one of his most famous (and unfinished) paintings, The Bathers.

Trong lúc vẫn chưa chia thành các khía cạnh hoặc hình khối, đôi khi Cezanne còn đưa vào một hình học cơ bản - ví dụ như, một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông (dù chưa hoàn thành) là The Bathers.

This work breaks tradition in its unflattering portrait of the women, whose naked forms are rendered in sharp symmetry, also forming a triangular pattern with the river and trees.

Tác phẩm này phá vỡ sự truyền thống trong bức chân dung không tì vết của những người phụ nữ, mà vẻ đẹp trần trụi của họ được thể hiện trong sự đối xứng sắc nét, cũng tạo thành một cấu trúc có hình tam giác với dòng sông và cây cối.

It is said to have inspired Picasso’s very similarly styled work, mentioned previously.

Nó được cho là đã lấy cảm hứng từ tác phẩm có phong cách tương tự của Picasso mà đã được đề cập trước đó.

Moving beyond those early years of Cubism, many other artists were exploring the same idea, but taking it in individual directions.

Tiến xa hơn những năm đầu của Trường phái lập thể, nhiều nghệ sĩ khác đang khám phá cùng một ý tưởng, nhưng thực hiện nó theo phong cách riêng.

They are often unfairly considered as having played less significant roles simply because they did not adhere to the strict perspectives of Braque or Picasso.

Không công bằng rằng khi họ thường bị coi là đóng vai trò ít quan trọng chỉ vì họ không tuân thủ các quan điểm nghiêm ngặt của Braque hay Picasso.

Yet, conceivably they could have evolved their own awareness of Cubism more from Cezanne’s pervading and almost universal influence on the Parisian art scene of that day, meaning that they must now be considered true innovators in their own right.

Tuy nhiên, có thể tin rằng họ có thể phát triển nhận thức của riêng mình về Trường phái lập thể nhiều hơn từ sự ảnh hưởng rộng lớn và hầu như toàn cầu của Cezanne trong lĩnh vực nghệ thuật Paris lúc đó, có nghĩa là bây giờ họ xứng đáng được coi là nhà đổi mới thực sự.

Juan Gris, for example, produced many interesting works, yet now remains little regarded.

Ví dụ, Juan Gris đã tạo ra nhiều tác phẩm thú vị, mà giờ vẫn còn chút coi trọng.

Interestingly, being a compatriot of Picasso, the two artists became personally acquainted, to the extent that Gris painted his well-known Portrait of Picasso, now regarded as one of the best examples of the Cubist style.

Thú vị thay, như một đồng hương của Picasso, hai người đã trở nên thân thiết với nhau, đến mức Gris đã vẽ ra bức chân dung nổi tiếng của Picasso, giờ đây được coi là một trong những ví dụ điển hình về phong cách Lập thể.

Gris ventured beyond the monochromatic (or single family of colours) employed by Picasso and Braque.

Gris đã mạo hiểm vượt ra ngoài sự đơn sắc (một dải màu đơn) được sử dụng bởi Picasso và Braque.

He combined vibrant hues in interesting and sometimes unusual combinations, such as in his still life, Newspaper and Fruit Dish.

Ông đã kết hợp nhiều màu sắc rực rỡ để tạo nên những sự phối màu thú vị và đôi khi khác thường, chẳng hạn như trong tranh tĩnh vật của ông hay tác phẩm Newspaper and Fruit Dish.

Similarly exploratory were the Orphic Cubists (as they would later become known), who moved further towards abstraction, but with Gris’s similar use of bright colours.

Khám phá tương tự là những người theo chủ nghĩa Orphic Cubism (sau này họ trở nên nổi tiếng), những người đã tiến xa hơn về tính trừu tượng, nhưng với việc sử dụng tương tự của Gris về những màu sắc tươi sáng.

These were used to convey meaning but blended in a way that went beyond the physical subject.

Chúng được sử dụng để truyền đạt ý nghĩa nhưng được pha trộn theo cách vượt ra ngoài chủ thể vật lý.

Its main proponent was the Frenchman, Robert Delaunay, who, together with his wife, regularly exhibited in Parisian salons with increasingly non-representational forms.

Người đề xuất chính của nó là người Pháp, Robert Delaunay, đã cùng với vợ thường xuyên trưng bày tại các tiệm Paris với các mẫu ngày càng không mang tính đại diện.

His Simultaneous Windows is barely recognisable as a window—just a blend of prismatic hues with one prominent square, giving a hint of three-dimensionality.

Tác phẩm Simultaneous Windows của ông, hầu như không thể nhận ra đó là một cửa sổ - chỉ là một sự pha trộn của các lăng kính đầy sắc màu với một hình vuông nổi bật, tạo ra một gợi ý về ba chiều.

Leger also followed a more personal form of Cubism.

Léger cũng theo một hình thức cá nhân của Trường phái lập thể.

As with most of his generation, he had seen the Cezanne 1907 retrospective, which enkindled interest in experimentation with geometric forms.

Như với hầu hết mọi người thuộc thế hệ của mình, ông đã xem triển lãm tranh của Cezanne năm 1907, điều đã khiến ông quan tâm đến việc thử nghiệm với các hình thức theo dạng hình học.

This eventually led to the completely abstract, in which tubes, cones, and cubes, are all splayed on the canvas in bold primary colours — seen, for example, in his Railway Crossing.

Điều này đã dẫn đến sự trừu tượng hoàn toàn, trong đó các ống, hình nón, và hình khối, tất cả đều được dàn ra trên tranh sơn dầu với các màu đậm cơ bản - ví dụ như, trong Railway Crossing.

Merc, in spite of its non-representational quality, is the suggestion of the harsh mechanisation and alienation of modern life, a theme which the artist’s experiences in World War One only accentuated, and which pre-dates similar trends (such as pop art) by decades.

Merc của ông, mặc dù cái tiêu biểu của nó không phải là chất lượng bức tranh, thì nó vẫn gợi lên sự cơ giới hóa khắc nghiệt và xa lánh cuộc sống hiện đại, một chủ đề mà những nghệ sĩ trải nghiệm trong Thế chiến thứ nhất là chủ yếu, và tồn tại trước những xu hướng tương tự nhiều thập kỷ (như nghệ thuật phim ảnh).

Clearly, Cubism was a complex art movement, and names such as Analytical, Synthetic, and Orphic Cubism are constructs which were invented long after the events and artworks which they attempt to describe.

Rõ ràng, Trường phái lập thể là một phong trào nghệ thuật phức tạp, và những phong cách như phong cách phân tích, phong cách tổng hợp, va phong cách trường phái lập thể đơn lẻ là những khái niệm được phát minh sau các tác phẩm nghệ thuật mà họ đã vẽ.

These names appear to give a coherent order to what was actually a collective movement in which many individuals contributed.

Những khái niệm này dường như đưa ra một trật tự nhất quán với những gì thực sự là một phong trào tập thể trong đó nhiều cá nhân đã đóng góp.

Among all this confusion, one does not doubt that the early years of last century were a fascinating period in the Parisian art scene.

Trong tất cả sự phức tạp khó hiểu nói trên, người ta không nghi ngờ rằng những năm đầu của thế kỷ trước là một thời kỳ hấp dẫn trong lĩnh vực nghệ thuật Paris.

Share: X (Twitter) Facebook LinkedIn