Carl Sagan once said, ‘Science loses ground to pseudo-science because the latter seems to offer more comfort.
Carl Sagan đã từng nói: “Khoa học thất thế trước Ngụy khoa học bởi vì phản khoa học dường như khiến người ta thoải mái hơn.
’ Yes, hard science, proven facts, and indisputable logic are often not sufficiently consoling, and thus routinely eliminated from the equation.
” Đúng vậy, hard science (khoa học "cứng"), những sự thật có căn cứ và các logic không thể chối cãi/ rõ ràng thường không đủ để làm người ta dễ chịu, và do đó nó thường bị loại ra khỏi vấn đề phức tạp này.
Never, though, has this been more distressing than with the so-called ‘anti-vaccination’ movement.
Dù vậy, chưa bao giờ điều này gây nhiều lo lắng hơn với cái gọi là phong trào ‘chống tiêm chủng’.
The end result has been the needless death of very young children, the most helpless of bystanders, and yet it seems there is no end in sight.
Và cái kết là những cái chết không đáng của những đứa trẻ rất nhỏ, sự bất lực tột cùng của những người ngoài cuộc, song điều này dường như sẽ không dừng lại tại đây.
It is strange to believe that vaccination, with such a long and distinguished track record, is now under assault.
Thật lạ lùng khi tin rằng tiêm chủng, với những thành tích dài và đáng chủ ý, thì giờ đây lại bị chỉ trích nặng nề.
Smallpox, for example, had killed over half a billion human beings throughout history but was eradicated — completely removed from the face of the Earth — via immunisation programs.
Lấy ví dụ, bệnh đậu mùa đã giết chết hơn nửa tỷ người trong suốt lịch sử nhưng đã bị loại trừ toàn diện - hoàn toàn biến mất khỏi thế giới - thông qua các chương trình tiêm chủng.
Similarly, polio, rubella, whooping cough, measles, and a slew of other diseases which routinely decimated the youth are now, virtually, things of the past.
Tương tự như vậy, bại liệt, rubella, ho gà, sởi, và nhiều bệnh dịch khác từng tàn sát trẻ em giờ đây hầu như chỉ còn là những câu chuyện của quá khứ.
The days of high infant mortality, short life spans, and nasty brutish lives are indeed long gone, and we owe it all to this crucial insight into disease prevention.
Đó là những chuỗi ngày mà tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh còn cao, nhịp sống ngắn ngủi, và cuộc sống đấu tranh với bệnh tật thực sự đã biến mất từ lâu, và chúng ta có được tất cả những thành công này là nhờ vào thành quả nghiên cứu quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh tật.
And this is part of the problem.
Và đây là một phần của vấn đề.
With the once terrible epidemics lying outside of human memory, a growing number of people are convinced that vaccinations are no longer necessary, and that the small risk of adverse effects outweighs the benefits.
Một lần nữa, những dịch bệnh khủng khiếp bị quên lãng, và ngày càng có nhiều người bị thuyết phục rằng tiêm chủng không còn cần thiết nữa, và rằng những nguy cơ của tác dụng phụ lớn hơn lợi ích mà tiêm chủng mang lại.
One reason for this belief is that many genetic disorders related to brain impairment often emerge at around two years of age — that is, the same period in which babies receive vaccinations.
Một lý do cho niềm tin này là nhiều rối loạn di truyền liên quan đến suy giảm chức năng não thường xuất hiện vào khoảng hai tuổi - tức là, cùng thời kỳ mà trẻ được chủng ngừa.
If one in a hundred babies is destined to develop autism among a vaccinated group, then observable symptoms of the problem will likely appear after a vaccination shot, leading distraught parents to link one event to the other.
Nếu một trong một trăm trẻ sơ sinh có khuynh hướng phát triển chứng tự kỷ trong một nhóm các trẻ được tiêm chủng, thì các triệu chứng có thể quan sát thấy của bệnh có khả năng xuất hiện sau khi tiêm, điều này khiến những bậc cha mẹ lo lắng liên kết các sự việc lại với nhau.
This misattribution is compounded by the Internet, which now hosts a sprawling forum of anti-vaccination lobby groups and their websites, full with unsubstantiated claims, fraudulent research, anecdotal evidence, and the passionate tirades of multitudes, firmly convinced of the correctness of their case.
Sự quy chụp sai lệch này càng bị làm cho trầm trọng hơn bởi Internet, vốn đang là một diễn đàn ngổn ngang, lộn xộn của các nhóm hành lang chống lại tiêm chủng và các trang web của họ, tràn ngập các tuyên bố vô căn cứ, những nghiên cứu dối trá, những chứng cớ thực chứng không qua nghiên cứu, và những tràng công kích mạnh mẽ của đám đông, mạnh mẽ bị thuyết phục bởi sự đúng đắn từ trường hợp của chính mình.
Authority is undermined, statistics ignored, and hard science excluded.
Thông tin đáng tin cậy bị thất thể, số liệu thống kê bị bỏ qua và vì thế khoa học "cứng" bị loại trừ.
Is it so surprising? If creationists and alternative medicine practitioners can gain respectability and widespread public and political support, so too can the pseudo-scicnce of the anti-vaccinationists.
Điều này thật ngạc nhiên đúng không? Nếu những người tin vào thuyết ‘sáng tạo linh hồn’ (sáng tạo luận) và những người hành nghề y theo hướng ‘y học bổ sung’ có thể chiếm được sự tôn trọng và ủng hộ rộng rãi của công chúng và chính trị, thì cái phản-khoa học của những người chống tiêm chủng cũng có thể như vậy.
When faced with this wave of propaganda, it would be hard for many parents, motivated by the intense desire to protect their children, not to be influenced.
Khi đối diện với làn sóng tuyên truyền này, rất khó để mà nhiều bậc cha mẹ, những người mà được thúc đẩy bởi mong muốn mạnh mẽ được bảo vệ con cái của mình, không bị ảnh hưởng theo.
At this point, it must be clarified that there is no credible evidence whatsoever to support the anti-vaccinationists’ claims.
Hiện tại, phải làm sáng tỏ rằng không có bất kỳ bằng chứng đáng tin cậy nào ủng hộ cho các tuyên bố chống tiêm chủng.
Over a score of peer-reviewed studies have found nothing to link the MMR (measles/mumps/rubella) vaccine to autism, or even the more subtle neurological problems, and every reason to continue with vaccinations.
Qua một số nghiên cứu được kiểm duyệt chéo thì vẫn không tìm thấy mối liên hệ nào giữa vắc-xin MMR (sởi / quai bị / rubella) với chứng tự kỷ, hay thậm chí là các vấn đề thần kinh tinh vi hơn, và thế là chúng ta đã có lý do để tiếp tục chủng ngừa.
The so-called increase in autism so often attributed to vaccinations merely results from more accurate diagnoses.
Cái gọi là phát triển chứng tự kỷ được quy chụp do tiêm chủng chỉ đơn thuần là kết quả từ các chẩn đoán cụ thể hơn.
Children who in the past would have been labeled as ‘retarded’ or ‘slow’ are now identified as having one of the three main grades of autism (which is probably genetically determined).
Những đứa trẻ mà trong quá khứ từng được cho là “chậm phát triển” hoặc "trì độn", hiện được xác định là rơi vào một trong ba loại bệnh tự kỷ chính (có thể là do di truyền).
Yet this argument falls on deaf ears, and the counter-claimants have succeeded in reducing vaccination rates among certain communities to the extent that outbreaks of preventable childhood illnesses (such as polio, meningitis, and measles) are occurring.
Tuy nhiên, lập luận này chẳng được ai nghe/ bị phớt lờ, và phe phản đối đã thành công trong việc giảm tỷ lệ tiêm chủng trong các cộng đồng nhất định tới mức mà các loại bệnh có thể ngăn ngừa ở trẻ em (như bại liệt, viêm màng não và sởi) ngày càng bùng nổ.
The MMR controversy is a sad case.
Các tranh cãi về MMR là một trường hợp đáng buồn.
In 1998, a high-profile paper linked this vaccine to autism.
Năm 1998, một nghiên cứu nổi tiếng đã cho thấy mối liên hệ giữa vắc-xin và chứng tự kỷ.
It was later shown that the author was receiving funds from various groups engaged in a lawsuit against vaccine manufacturers, and that the study was both ethically and methodologically faulty.
Sau đó người ta phát hiện ra rằng tác giả của nghiên cứu này đã nhận tiền từ nhiều nhóm đang dính líu vào một vụ kiện chống lại các nhà sản xuất vắc-xin, và rằng nghiên cứu này không đúng về cả mặt đạo đức lẫn phương pháp luận.
Data had been manipulated, and results misreported.
Dữ liệu thì bị nguỵ tạo còn kết quả thì bị sai báo.
Similar studies found no link whatsoever, and in 2004, the medical journal which hosted the original article formally retracted its conclusion.
Các nghiên cứu tương tự không tìm thấy bất kỳ sự liên kết nào, và vào năm 2004, tạp chí y khoa từng đăng tải bài báo gốc đã chính thức rút lại kết luận của mình.
Yet vaccination rates in the UK had dropped to 80% in the subsequent years.
Tuy nhiên tỷ lệ tiêm chủng ở Anh đã giảm xuống 80% trong những năm tiếp theo.
In late 1999, a measles outbreak occurred in North Dublin (which had vaccination rates as low as 60%), resulting in 100 hospitalisations and three deaths.
Vào cuối năm 1999, một đợt bùng phát dịch sởi đã diễn ra ở North Dublin (nơi mà có tỷ lệ tiêm chủng thấp tới 60%), dẫn đến 100 ca nhập viện và 3 ca tử vong.
One of the key arguments of the anti-vaccinationists is that they have the right to choose their medication.
Một trong những lý lẽ chính của những người chống tiêm chủng là họ có quyền lựa chọn thuốc cho bản thân mình.
These people attack what they see as the impersonal, intrusive, and uncaring edifice of modern medical science.
Những người này công kích cái họ cho là công trình của chung, bừa bãi, vô tâm của y khoa hiện đại.
However, the success of immunisation programs depends on a sufficiently high number of the population being immune, which forces the disease to die out through lack of carriers.
Tuy nhiên, sự thành công của các chương trình tiêm chủng phụ thuộc vào số lượng người được miễn dịch đủ cao, điều này buộc căn bệnh này phải suy yếu hoặc chấm dứt vì thiếu người mang mầm bệnh
If there are enough susceptible individuals to provide a chain of disease transmission, safety is compromised for all, and this is why free choice should not be an issue, particularly when the hard evidence presents an overwhelming case.
Nếu có đủ các cá nhân nhạy cảm để tạo nên một chuỗi truyền bệnh, thì sự an toàn của tất cả chúng ta sẽ bị hạ thấp, và đây là lý do tại sao sự tự do lựa chọn không phải là vấn đề, đặc biệt khi các bằng chứng chặt chẽ thể hiện một trường hợp khó khăn.
Personally, I would have thought that when children started dying from preventable diseases, the anti-vaccinationists’ case would die also.
Cá nhân tôi sẽ cho rằng khi trẻ em bắt đầu chết vì những căn bệnh có thể ngăn ngừa được, thì những người chống vaccine cũng vậy.
But there are other agendas at play.
Song, có những chiến dịch khác đang được thực hiện.
Anti-vaccinationists can posture as moral crusaders, dismissing those who support immunisation as being in the payment of big pharmaceutical companies, whom they see as dishonest and immoral.
Những kẻ chống tiêm chủng có thể đứng lên như những nhà hoạt động đạo đức, làm giảm đi sức mạnh của những người ủng hộ chủng ngừa, cứ như là những người này đang trả tiền cho các công ty dược phẩm lớn, mà họ cho là không trung thực và vô đạo đức.
Talk show hosts, women’s magazines, paid ‘experts’, lawyers, and media celebrities, all benefit from creating controversy when none existed, while alternative medicine practitioners and snake-oil salesmen all oppose vaccination, believing that their own slew of pills, potions, and unproven expensive treatments do the job better.
Các chủ show, các tạp chí phụ nữ, hay các ‘chuyên gia’, luật sư và những người nổi tiếng được trả lương, tất cả họ đều hưởng lợi từ việc tạo ra các cuộc tranh cãi khi thực chất không có vấn đề gì xảy ra, trong khi đó, những người hành nghề trong mảng ‘y học thay thế’ và các nhân viên bán cao rắn đều chống lại tiêm phòng, vì họ tin rằng nhiều thuốc, dược phẩm cùng các phương pháp điều trị đắt tiền chưa được chứng minh của họ làm tốt hơn.
Against all this, how can rational science prevail? .
Dựa vào tất cả điều này, làm thế nào để khoa học chân chính có thể tạo được ảnh hưởng/ có được tiếng nói?